Phương pháp thực hành thiền
-
Phương pháp thực hành thiền
Các phương pháp thực hành thiền (gọi tắt là hành thiền) là các phương pháp thực hành trong đó một cá nhân huấn luyện tâm trí hoặc tạo ra một trạng thái của ý thức, để đạt đến một số lợi ích hay đơn giản là đạt đến tâm thức trên là đủ.
Hành thiền gồm một số lượng lớn các hoạt động (giống như các môn thể thao) bao gồm các kỹ thuật được thiết kế để thúc đẩy thư giãn, xây dựng năng lượng nội tại hay sinh lực (khí, prana, v.v…) và phát triển lòng từ bi, tình yêu, sự kiên nhẫn, khoan dung và tha thứ. Một tham vọng lớn của hành thiền là nhằm vào việc tập trung dễ dàng để duy trì sự tập trung hoàn toàn vào thực tại, nghĩa là để cho các thiền nhân tận hưởng một cảm giác hạnh phúc không thể phá vỡ khi tham gia vào bất kỳ hoạt động nào trong cuộc sống.
Thiền thực hành mang ý nghĩa khác nhau trong những bối cảnh khác nhau. Thiền đã được thực hiện từ thời cổ đại như là một phần của nhiều tôn giáo và niềm tin truyền thống. Nó thường liên quan đến một nỗ lực nội tại của con người để tự điều chỉnh tâm trí theo một cách nào đó. Thiền thường được sử dụng để làm sạch tâm trí và giảm bớt nhiều vấn đề liên quan đến sức khỏe, chẳng hạn như huyết áp cao,[6] trầm cảm và lo âu. Nó có thể được thực hiện bằng cách ngồi theo một số tư thế (còn gọi là thiền tĩnh), hoặc trong một số trường hợp, ngay cả khi hoạt động (còn gọi là thiền động) khi con người học cách tỉnh thức ngay trong các hoạt động thường ngày như một hình thức chế ngự tâm trí. Việc đếm hạt khi cầu nguyện hoặc các hình thức mang tính nghi lễ như tụng kinh, thường được sử dụng trong quá trình thực hành thiền nhằm theo dõi và nhắc nhở các học viên về một số khía cạnh của việc huấn luyện tâm trí này.
-
Tọa thiền
Tọa thiền (zh. zuòchán 坐禪, ja. zazen), nghĩa là ngồi thiền, là phương pháp tu tập trực tiếp đưa đến Giác ngộ. Mới đầu tọa thiền đòi hỏi thiền giả tập trung tâm trí lên một đối tượng (ví dụ một Mạn-đồ-la hay linh ảnh một vị Bồ Tát), hay quán sát về một khái niệm trừu tượng (ví dụ như quán tính Vô thường hay lòng Từ bi). Sau đó tọa thiền đòi hỏi thiền giả phải thoát ra sự vướng mắc của tư tưởng, ảnh tượng, khái niệm vì mục đích của tọa thiền là tiến đến một tình trạng vô niệm, tỉnh giác, không dung chứa một nội dung nào. Sau một giai đoạn kiên trì trong vô niệm, hành giả sẽ bỗng nhiên trực ngộ thể tính của mình, đó là tính Không, cái "thể" của vạn vật.
Trong một chừng mực nhất định, tọa thiền đối lập với cách thiền quán Công án vì công án là một đề tài nghịch lí, bắt thiền giả phải liên tục quán tưởng để đến một lúc nào đó bỗng chợt phát ngộ nhập. Trong các phái Thiền Trung Quốc và Nhật Bản, có phái nghiêng về công án (Khán thoại thiền), có phái nghiêng về tọa thiền (Mặc chiếu thiền).
Như từ "thiền" cũng có nghĩa "trầm lắng", tọa thiền là "ngồi trong sự trầm lắng." Tọa thiền quan trọng đến mức có người cho rằng không có tọa thiền thì không có thiền. Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng có lần nói đại ý "không thể thành Phật bằng việc ngồi". Công án này có nhiều người hiểu sai, cho rằng Nam Nhạc chê bai việc "ngồi", vì con người vốn đã là Phật. Đã đành, Phật giáo Đại thừa cũng như Thiền tông đều cho rằng chúng sinh đã là Phật, nhưng Thiền cũng nhấn mạnh rằng, điều khác nhau là tin hiểu điều đó một cách lí thuyết hay đã trực ngộ điều đó. Kinh nghiệm trực ngộ đó chính là giác ngộ, mà hành trì tọa thiền là một phương pháp ưu việt.
Như Tổ Thiền Trung Quốc Bồ-đề-đạt-ma đã ngồi chín năm quay mặt vào vách tại chùa Thiếu Lâm, phép tọa thiền là phép tu chủ yếu của Thiền và được mọi Thiền sư hành trì. Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền cho rằng tọa thiền là "đường dẫn đến cửa giải thoát". Trong tác phẩm Bạch Ẩn Thiền sư tọa thiền hòa tán, Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc viết:
Ôi tọa thiền, như Đại thừa chỉ dạy, không có lời tán dương nào nói hết. Tu sáu Ba-la-mật hay tu hạnh bố thí, giữ giới hay hành trì, kể sao cho hết. Tất cả đều xuất phát từ tọa thiền. Chỉ một lần tọa thiền, công đức sẽ rửa sạch tất cả nghiệp chướng chồng chất từ vô thuỷ.
Lục tổ Huệ Năng giảng về Tọa thiền trong Pháp bảo đàn kinh:
Thiện tri thức, tại sao gọi là Tọa thiền? Trong Pháp môn này vô chướng, vô ngại, bên ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là Tọa, bên trong thấy tự tính chẳng động gọi là Thiền. Thiện tri thức, sao gọi là Thiền định? Bên ngoài lìa tướng là Thiền, bên trong chẳng loạn là Định. Ngoài nếu chấp tướng trong tâm liền loạn, ngoài nếu lìa tướng thì tâm chẳng loạn. Bản tính tự tịnh, tự định, chỉ vì thấy cảnh chấp mà thành loạn. Nếu người thấy mọi cảnh mà tâm chẳng loạn, đó là Chân định vậy.
Theo wikipedia
Khải Toàn Phong thuỷ
• Chánh niệm: “Thành công nhờ kiên trì – Trí tuệ nhờ Chánh niệm”, nghĩa rằng muốn thành công phải thật kiên trì, có những việc thực hiện cả vạn lần, tư duy luôn hướng tới những điều tích cực trong mọi hoàn cảnh sẽ sinh ra trí tuệ.
• Nhân quả: Giả dụ mỗi ngày bạn bỏ vào ống heo 100 ngàn đồng, một năm sau heo sẽ mập, mỗi ngày hành thiền 10 phút, một năm sau tâm trí sẽ thành cây đại thụ an tịnh. Đạo lý này nói lên “quả của hôm nay, hoàn toàn là Nhân của hôm qua”.
• Khải Toàn không phải thầy phong thủy nổi tiếng, dùng kiến thức phong thủy chân chính, dùng khả năng tu tập của bản thân, để trợ duyên những vị đủ duyên và đủ phước để cải vận, trong kết quả luôn kèm theo lời khai thị về sống chân thiện, mở lòng bố thí, khuyến nghị hành thiền, đó là những phương tiện gia tăng vận may ngoài ứng dụng phong thủy
• Phong thủy: là phương tiện trợ duyên giúp công danh thăng tiến. Không gian là phong thủy, tâm lý là phong thủy, sạch sẽ gọn là là phong thủy tốt, tâm trạng phấn khởi là phong thủy tốt, vị nào có tấm lòng vị tha không chấp trước hẵn là người có phúc đức.
| Mời chư vị xem kênh “Khải Toàn Phong thủy” trên Youtube / Tik Tiok / Facebook |